Werner Heisenberg đã làm rung chuyển thế giới vật lý
hạ nguyên tử với Nguyên
lý bất định của mình, thường được biết
đến với tên Nguyên lý Về Tính không chắc chắn. Tóm lại, ông
nói với các nghiên cứu sinh vật lý rằng họ có thể không
bao giờ biết vị trí chính xác và động
lượng của một hạt hạ nguyên tử bởi vì quá trình đo lường tự nó thay đổi giá trị
của một trong những thuộc tính này.
Heisenberg cảm thấy rằng ý tưởng của
ông có sự liên quan vượt ra ngoài thế giới hạt hạ nguyên tử, và ông đã xuất bản nhiều
tác phẩm về triết học. Dù
vậy, có thể nói một cách an toàn rằng ông
đã không dự đoán được
sự liên quan giữa Tính không chắc chắn và Hệ thống trợ
cấp tài chính hiện đại tại
Hoa Kỳ.
Dưới đây là Nguyên lý Về Tính Không chắc chắn của
chính tôi về chi phí đại học:
Các
gia đình thuộc tầng lớp trung lưu không thể hoạch định chính xác cho
chi phí đại học trong tương lai, bởi vì quá trình lập kế hoạch tự nó ảnh hưởng
đến những chi phí
này.
Nếu điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn, hãy tiếp tục đọc….
Đơn
giản hóa việc lập kế hoạch tài chính một cách thái quá. Rất nhiều nhà hoạch định kế hoạch tài
chính dùng tài sản tích lũy để tính quỹ học vấn một cách tương đối đơn giản – bằng
cách đưa ra vài giả định về loại trường mà
bé Johnny sẽ theo
học trong 18 năm nữa, gắn vào một tỷ lệ lạm phát của chi phí đại học và một tỷ lệ hoàn vốn kỳ vọng của một khoản đầu tư, và rồi xong! - Bạn dành ra một khoản tiền hàng tháng để
có thể đủ khả
năng trang trải chi phí đại học.
Thật ra, các nhà hoạch
đinh này đã sai hoàn toàn. Nếu không có cấu trúc hỗ trợ tài chính phức tạp của chúng
ta thì mọi việc thật đơn giản. Chắc chắn một người có thể đoán sai
về tỷ lệ lạm phát hay
mức lãi suất, nhưng mức
lợi nhuận từ số tiền gia đình tiết kiệm cho việc vào đại học thì phải gần đúng. Tuy
nhiên, tình hình sẽ phức tạp hơn
cho các gia đình trung lưu.
Đây là lý do tại sao:
Sự
dự đoán đúng về chi phí của các trường nên bao gồm cả việc dự đoán đúng khoản hỗ trợ tài
chính. Trong khi giả định khôn
ngoan và bảo thủ đã
bỏ qua vấn đề
hỗ trợ tài chính
khi lập kế hoạch chi phí đại học trong tương lai, thì
chi phí thực theo kinh nghiệm của
nhiều gia đình trung lưu, trong thực tế, lại
phản ánh các khoản học bổng, tài trợ và các khoản vay.
Tích lũy tài sản có thể ảnh hưởng đến trợ cấp, và như vậy, sẽ ảnh hưởng
tới chi phí tiền trường. Khi một người
dự toán chi phí và bắt đầu tiết kiệm cho
các chi phí đó, thì
chi phí thực tế
phát sinh trong tương lai sẽ
tăng lên. Điều này không có nghĩa là người ta không nên tiết kiệm, mà điều quan trọng
cần lưu ý rằng khoản
tiết kiệm đó sẽ làm thay đổi chi
phí thực tế trong nhiều trường hợp.
Một
số gia đình sẽ có thể tích lũy đủ
tài sản để trả
toàn bộ chi phí tiền
trường của mọi thành viên gia đình. Với chi phí tiền
giáo dục trong bốn năm tại nhiều
trường tư nhân đang
đẩy lên mức $150,000, và
thậm chí là chi phí nhập
học tại các trường công
cũng tăng nhanh hơn so với mức
lạm phát chung,
thì tương đối ít gia đình trung
lưu sẽ có thể thực hiện được những gì các nhà hoạch định tài chính đề xuất – đó là nếu tích lũy các khoản tiền
góp và tiền tiết kiệm thường xuyên thì họ sẽ có thể thanh toán đầy đủ chi phí tiền
trường cho tất cả con cái của họ.
Có rất nhiều lý do cho việc này. Rõ
ràng nhất đó là gia đình có con
nhỏ thường chưa định được
ngành học của con và đang phải lo các chi phí cao trong việc chăm lo gia đình.
Việc phân bổ một khoản tiền tiết kiệm thường là không thể nếu không có nhiều sự từ bỏ một số
chi phí quan trọng khác. Một yếu tố khác trong nền kinh
tế ngày nay đó là tiền tiết
kiệm hưu trí. Nhiều thập kỷ trước đây, người
ta có thể trông cậy vào chính sách kết hợp giữa quỹ hưu của công ty và an sinh xã
hội để có thể nghỉ hưu một cách an nhàn.
Nhưng ngày nay, hầu hết các nhà sử
dụng lao động đã loại bỏ
các quỹ hưu rất hữu ích này, và chính
sách an sinh xã hội thì
không chắc chắn cho những người
về hưu. Do đó, những
gia đình có sẵn một số nguồn thu để tiết kiệm cảm
thấy bắt buộc phải đầu tư khoản
tiền đó vào các tài sản dành cho quỹ hưu hơn
là cho quỹ học vấn.
Khó
để có thể dự đoán thu nhập trong tương lai, nếu không phải là không thể. Môi
trường kinh doanh hiện nay cũng
là một nhân tố. Không lâu trước đây, việc người trụ cột trong gia đình chỉ làm cho một công ty
trong suốt sự nghiệp là phổ biến, có nghĩa là thu nhập sẽ
thay đổi theo các bước tiến hoặc lùi trong sự nghiệp, nhưng vẫn có
thể dự đoán được với một mức độ chắc chắn nào đó. Ngày
nay, việc làm tại một công ty suốt đời đã lạc hậu, một người làm tại nhiều công
ty là chuyện bình thường. Ngay cả các công
ty lớn nhất cũng không còn ổn định và dự
đoán được nữa. Thậm chí IBM cũng tạm biệt việc “tuyển dụng suốt
đời” khi
sa thải hàng loạt nhân viên. Ngày nay, thường là khó khăn để dự đoán trước một vài năm và để hoàn toàn tự
tin về mức thu nhập của một người, sẽ
còn ít năm hơn nữa trong tương lai.
Các quyết định tài chính khác cũng ảnh hưởng đến
chi phí đại học. Chủ sở hữu một
doanh nghiệp nhỏ có thể quyết định chuyển giao tài sản cho con mình để giữ tài sản khỏi tầm kiểm soát của chủ
nợ hoặc ngăn không
cho các tài sản này trở thành mục tiêu trong
các vụ kiện tụng. Trong khi các quyết định này nhằm đối phó với các phán quyết liên
quan tới kinh doanh của tòa, thì nó cũng có thể ảnh hưởng đáng kể tới chi phí đại học trong
tương lai do khoản phải trả cao hơn (EFC) trên số tài sản của sinh viên.
Việc
chọn trường và nhập học cũng khó và có thể là không thể biết trước được. Trong khi một
số phụ huynh có thể cho
con vào học tại Harvard hay Purdue, thì
thực tế việc tìm trường và nhập học lại là
một câu chuyện khác. Thông thường, sinh viên sẽ quyết định lĩnh vực mình
yêu thích vào năm cuối cùng của trường trung học, hoặc thậm chí là chưa quyết định được. Tất nhiên, việc được nhận vào học các trường điểm là rất khó đoán trước. Đồng thời, một sinh viên chắc chắn được nhận học vào trường tại
bang mình sống có thể bất ngờ được
nhận học tại Princeton, hoặc có thể quyết định học violin hay ngành sinh học biển và muốn học một ngành không có tại bang
mình ở. Tóm lại, việc
cố gắng để đoán trường nào sinh viên
sẽ chọn học hoặc được nhận vào học trước nhiều năm là hoàn toàn không chắc
chắn.
Tài sản không luôn luôn là tài sản. Sự
không chắc chắn có liên quan đến việc dự đoán lựa
chọn trường cuối cùng còn
tạo ra nhiều biến hơn. Các
loại tài sản như tài khoản hưu trí, nhà
cửa, vv, có thể được trường
này bỏ qua nhưng trường
khác lại coi là tài sản sẵn
có. Vì không thể dự đoán trường
nào sẽ là lựa chọn cuối cùng của sinh viên nên một người không thể dự đoán chính xác loại tài sản nào sẽ được đưa vào xem xét khi tính khoản tiền phải trả (EFC), và do đó, không thể dự đoán chi phí đại học
thực tế sẽ là bao nhiêu.
Kết luận lại, nếu một gia đình có thể nhiều khả năng thậm chỉ là chút ít đủ điều kiện nhận hỗ trợ tài chính, thì số lượng biến
tham gia trong quá
trình hoạch định chi phí sẽ
làm cho việc dự đoán chi phí đại học thực tế là không thể hoặc không đáng tin
cậy.
Các chiến lược tốt nhất cần phải vừa liên quan tới nỗ lực tiết kiệm cho trường
hợp "tồi tệ nhất ", đó là chi phí tiền trường tốn kém, không nhận được hỗ
trợ tài chính, và phải vừa liên quan tới việc tiết kiệm càng nhiều càng tốt để
ít có khả năng dẫn đến việc gia đình phải chi trả tiền trường cao hơn